Vỏ não là lớp ngoài cùng bao quanh não, bao gồm chất xám và chứa hàng tỷ tế bào thần kinh được sử dụng để thực hiện các chức năng điều hành cấp cao.
Vỏ não chia thành bốn thùy, bao gồm trán, đỉnh, chẩm và thái dương bởi các rãnh não khác nhau.
Nhân nền còn được gọi là hạch nền, nằm sâu bên trong chất trắng của não và bao gồm nhân đuôi, nhân bèo và nhân cầu nhạt. Các hạch nền chịu trách nhiệm liên kết não bộ cho sự chuyển động và phối hợp của cơ.
Đồi thị là trung tâm chuyển tiếp của não. Đồi thị sẽ nhận các xung hướng tâm từ các thụ thể cảm giác nằm khắp cơ thể và xử lý thông tin để phân phối đến vùng vỏ não thích hợp. Đồi thị cũng chịu trách nhiệm điều chỉnh ý thức và giấc ngủ.
Mặc dù vùng dưới đồi là một trong những phần nhỏ nhất của não nhưng rất quan trọng để duy trì cân bằng nội môi. Vùng dưới đồi kết nối hệ thống thần kinh trung ương với hệ thống nội tiết.
Ngoài ra, vùng dưới đồi còn chịu trách nhiệm về nhịp tim, huyết áp, sự thèm ăn, cơn khát, nhiệt độ và giải phóng các loại hormone khác nhau.
Vùng dưới đồi cũng giao tiếp với tuyến yên để giải phóng hoặc ức chế hormone chống bài niệu, hormone giải phóng corticotropin, hormone giải phóng gonadotropin, hormone giải phóng hormone tăng trưởng, hormone ức chế prolactin, hormone giải phóng tuyến giáp và oxytocin.
Được tìm thấy trong thân não, cầu não nối hành não và đồi thị. Cầu não bao gồm các vùng chịu trách nhiệm chuyển tiếp các xung động từ vỏ não vận động đến tiểu não, tủy và đồi thị.
Hành não nằm ở dưới cùng của thân não, nơi tủy sống gặp lỗ lớn của hộp sọ. Hành não chịu trách nhiệm về các chức năng tự trị, một số trong đó rất quan trọng cho sự sống còn.
Hành não giám sát hệ hô hấp của cơ thể bằng cách sử dụng các cơ quan thụ cảm hóa học. Những thụ thể này có thể phát hiện những thay đổi trong hóa học máu. Ví dụ, nếu máu quá axit, hành não sẽ tăng nhịp hô hấp để có nhiều oxy đến máu hơn.
Hành não cũng là một trung tâm tim mạch và vận mạch. Hành não có thể điều chỉnh huyết áp, mạch và các cơn co thắt tim của cơ thể dựa trên nhu cầu của cơ thể.
Cuối cùng, hành não có vai trò kiểm soát các phản xạ như nôn, nuốt, ho và hắt hơi.
Tiểu não còn được gọi là não nhỏ, chịu trách nhiệm thực hiện các chuyển động tự nguyện nhịp nhàng và phối hợp.
Tiểu não được chia thành ba thùy: thùy trước, thùy sau và thùy bông. Tiểu não chứa một mạch tiểu não, sử dụng tế bào Purkinje và cuống tiểu não để liên lạc với các phần khác của não.
Cuống tiểu não trên bao gồm chất trắng nối tiểu não với não giữa và cho phép phối hợp ở tay và chân. Cuống tiểu não dưới nối hành não và tiểu não bằng cách sử dụng cơ quan cảm thụ bản thể để duy trì sự cân bằng và tư thế. Cuối cùng, cuống tiểu não giữa được sử dụng như một phương thức giao tiếp một chiều từ cầu não đến tiểu não.
Tiểu não liên lạc thường xuyên với vỏ não, nhận các hướng dẫn ở cấp độ cao hơn về ý định của não, xử lý chúng thông qua vỏ tiểu não, sau đó gửi tin nhắn đến vỏ não vận động để thực hiện các cơn co cơ tự nguyện. Những cơn co thắt này được tính toán để xác định lực, hướng và động lượng cần thiết nhằm đảm bảo mỗi cơn co thắt diễn ra suôn sẻ và phối hợp.
Tủy sống kéo dài từ lỗ chẩm của hộp sọ đến đốt sống thắt lưng thứ nhất hoặc thứ hai, tạo ra một con đường hai chiều giữa não - cơ thể và chia thành bốn vùng cổ, ngực, thắt lưng và xương cùng.
Những vùng này sau đó được chia thành 31 đoạn với 31 cặp dây thần kinh cột sống. Có 8 dây thần kinh cổ, 12 dây thần kinh ngực, 5 dây thần kinh thắt lưng, 5 dây thần kinh cùng và 1 dây thần kinh cụt. Mỗi dây thần kinh thoát ra khỏi cột sống đi qua lỗ gian đốt sống và đến vị trí được chỉ định trong cơ thể.
Chất trắng nằm ở bên ngoài tủy sống, chất xám nằm ở lõi và dịch não tủy ở ống trung tâm. Các viền xám, sừng lưng, sừng bên và sừng bụng đều được cấu tạo từ chất xám.
Sừng lưng được tạo thành từ các tế bào thần kinh trung gian, trong khi sừng bụng là tế bào thần kinh vận động cơ thể. Các tế bào thần kinh hướng tâm ở rễ lưng mang các xung động từ các cơ quan thụ cảm giác quan của cơ thể đến tủy sống, nơi thông tin bắt đầu được xử lý. Sừng bụng chứa các tế bào thần kinh vận động ly tâm, điều khiển ngoại vi của cơ thể. Các sợi trục của tế bào thần kinh vận động được tìm thấy trong cơ xương và cơ trơn của cơ thể để điều chỉnh cả phản xạ không tự nguyện và tự nguyện.
Nơron thần kinh là đơn vị cấu tạo hệ thần kinh cơ bản và là thành phần quan trọng bậc nhất của não bộ. Vậy bộ não người có bao nhiêu nơron? Câu trả lời là cơ thể mỗi người chứa hàng tỷ nơron thần kinh, trong đó có khoảng 100 tỷ trong não và 13.5 triệu trong tủy sống.
Hệ thống thần kinh sẽ sử dụng các tế bào thần kinh để gửi tín hiệu hoặc tin nhắn khắp cơ thể. Những tín hiệu điện này di chuyển giữa não, da, các cơ quan, tuyến và cơ bắp của bạn.
Các thông điệp giúp bạn cử động chân tay và cảm nhận được các cảm giác, chẳng hạn như đau đớn. Mắt, tai, lưỡi, mũi và các dây thần kinh trên khắp cơ thể tiếp nhận thông tin về môi trường của bạn. Sau đó, các dây thần kinh mang dữ liệu đó đến và đi từ não của bạn.
Có nhiều loại tế bào thần kinh khác nhau. Mỗi loại tế bào thần kinh có một công việc khác nhau, bao gồm:
Có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến hệ thần kinh não bộ của bạn, bao gồm:
Chấn thương sọ não xảy ra khi có sự gián đoạn hoạt động bình thường của não, có thể xảy ra khi chấn thương thể thao, tai nạn xe hơi, do một vật xuyên thấu hoặc thậm chí là một vật cùn tác động vào đầu của bạn.
Các triệu chứng của chấn thương sọ não có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của chấn thương. Ví dụ, chấn động não nhẹ có thể gây chóng mặt hoặc mất ý thức tạm thời, trong khi chấn động não nặng có thể gây tổn thương thần kinh lâu dài.
Chấn thương sọ não có thể gây xuất huyết dưới màng cứng hoặc dưới nhện và phù não. Nguyên nhân là do khi não bị chấn thương, các mạch máu trong não sẽ bị vỡ. Máu bắt đầu dồn lại, làm tăng áp lực nội sọ và chèn ép mô não. Khi não phù nề quá nhiều gây chèn vào tủy sống thì các chức năng của hệ thần kinh tự trị sẽ bị mất.
Tai biến mạch máu não hay còn gọi là đột quỵ, xảy ra khi não không thể nhận được máu giàu oxy. Việc thiếu oxy gây ra tình trạng thiếu oxy và các mô trong não bắt đầu chết.
Thông thường, đột quỵ là do cục máu đông di chuyển từ một vị trí trong cơ thể đến động mạch não trong não. Tùy thuộc vào nơi cục máu đông hình thành, xác định các triệu chứng của đột quỵ. Ví dụ, một số người có thể bị liệt nửa người bên trái, trong khi những người khác có thể nói ngọng.
Các cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua được coi là những cơn đột quỵ nhỏ vì các triệu chứng chỉ mang tính tạm thời và có thể hồi phục.
Trong bất kỳ loại đột quỵ nào thì thời gian là rất quan trọng. Nếu cần thiết, bác sĩ có thể sử dụng chất kích hoạt plasminogen mô để phá vỡ cục máu đông hoặc có thể phẫu thuật loại bỏ nó. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng liên quan trực tiếp đến việc nguồn cung cấp oxy cho não đã bị cắt trong bao lâu.
Bệnh Alzheimer là một loại bệnh mất trí nhớ phổ biến trong đó các tế bào não và các liên kết não bộ của một người bắt đầu thoái hóa và chết. Tình trạng này biểu hiện bằng việc mất trí nhớ và suy giảm nhận thức. Bệnh Alzheimer tiến triển với các triệu chứng xấu đi theo thời gian.
Các nhà khoa học đã tìm thấy sự tập hợp các mảng beta-amyloid và các đám rối sợi thần kinh được tạo thành trong tế bào thần kinh ở bệnh nhân Alzheimer. Những mảng bám và đám rối này dẫn đến cái chết của các tế bào não và dẫn đến tình trạng bệnh nhân Alzheimer bị giảm hoạt động thần kinh ở vỏ não đỉnh, hồi hải mã và não trước.
Bệnh Parkinson là một rối loạn hệ thần kinh dẫn đến sự suy giảm các tế bào thần kinh giải phóng dopamine ở vùng chất đen. Mức độ dopamine giảm xuống tạo ra triệu chứng run rẩy, chuyển động không ổn định và mất thăng bằng.
Hình: Bệnh Parkinson là một rối loạn hệ thần kinh dẫn đến sự suy giảm các tế bào thần kinh giải phóng dopamine ở vùng chất đen
Bệnh Parkinson tiến triển dần dần vì bệnh thường bắt đầu bằng tình trạng run ở một tay. Nhiều bệnh nhân có biểu hiện cử động lăn thuốc ở tay, vận động chậm và cứng khớp khi các triệu chứng tiến triển.
Chẩn đoán bệnh Parkinson là kết quả của việc xem xét các triệu chứng, tiền sử bệnh và khám thần kinh và thể chất của bệnh nhân. Mặc dù không có cách chữa trị căn bệnh này nhưng mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng có thể được kiểm soát.
Levodopa có thể đi qua máu não và trải qua quá trình chuyển đổi thành dopamine để sử dụng ở hệ thần kinh trung ương. Kích thích não sâu cũng là một lựa chọn phẫu thuật có thể ngăn chặn hoạt động bất thường của não và do đó kiểm soát chứng run. Tuy nhiên, kích thích não sâu không ngăn được bệnh tiến triển.
Bệnh Huntington là một chứng rối loạn não tiến triển, di truyền, gây ra bởi đột biến gen Huntingtin, HTT. Đoạn CAG trong gen HTT thường lặp lại tới 35 lần. Tuy nhiên, ở người mắc bệnh Huntington, đoạn CAG được lặp lại tới 120 lần. Đoạn CAG lớn này khiến protein Huntingtin tích tụ trong tế bào não, cuối cùng dẫn đến chết tế bào.
Ban đầu, bệnh Huntington gây ra chứng múa giật, giật giật không chủ ý và cử động vỗ tay. Khi bệnh tiến triển, sự suy giảm nhận thức xảy ra. Gây tử vong trong vòng 15 năm kể từ khi chẩn đoán.
Các triệu chứng của chấn thương tủy sống phụ thuộc vào vị trí xảy ra chấn thương. Nếu tổn thương các vùng cảm giác xảy ra, cảm giác có thể bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, nếu rễ bụng hoặc sừng bụng bị tổn thương thì cơ thể sẽ bị tê liệt.
Liệt mềm là khi các xung thần kinh không đến được các cơ mong muốn. Nếu không có sự kích thích, các cơ không thể co bóp được.
Liệt cứng là khi các tế bào thần kinh vận động trải qua sự kích thích không đều, gây ra sự co thắt không tự chủ.
Liệt chi dưới, xảy ra khi tủy sống bị cắt giữa T1 và L1.
Liệt tứ chi là kết quả của một chấn thương ở vùng tủy cổ.
Bệnh bại liệt là tình trạng viêm tủy sống do virus bại liệt. Poliovirus lây lan từ người sang người hoặc qua thực phẩm và nước bị nhiễm bệnh. Poliovirus sẽ phá hủy các tế bào thần kinh ở sừng bụng của tủy sống dẫn đến tê liệt. Việc lây nhiễm virus bại liệt có thể phòng ngừa được bằng cách tiêm vắc xin.
Bệnh xơ cứng teo cơ một bên, còn được gọi là bệnh ALS và Lou Gehrig, phá hủy các tế bào thần kinh vận động kiểm soát các cử động tự nguyện và không tự nguyện như thở, nói và nuốt.
Nguyên nhân của ALS vẫn chưa được biết rõ và thật không may là không có cách chữa trị. Các nhà khoa học tin rằng sự chết của tế bào có liên quan đến lượng glutamate ngoại bào dư thừa ở bệnh nhân ALS.
Riluzole có thể phá vỡ sự hình thành glutamate, được sử dụng để làm chậm quá trình tiến triển và giảm các triệu chứng đau đớn của ALS.
Bệnh đa xơ cứng là một bệnh tự miễn, trong đó cơ thể tấn công các protein myelin của hệ thần kinh trung ương, làm gián đoạn sự giao tiếp giữa não và cơ thể.
Hình: Bệnh đa xơ cứng là một bệnh tự miễn
Bệnh đa xơ cứng có tỷ lệ mắc cao ở người trẻ tuổi và biểu hiện dưới dạng đau, yếu, giảm thị lực và mất khả năng phối hợp. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng khác nhau tùy theo từng bệnh nhân.
Thuốc được sử dụng để ức chế hệ thống miễn dịch của cơ thể và có thể giúp kiểm soát các tác động bất lợi của căn bệnh này.
Bài viết đã giúp chúng ta biết được bộ não người có bao nhiêu nơron và hệ thần kinh não bộ là trung tâm chỉ huy cho hoạt động của toàn bộ cơ thể. Các liên kết não bộ sẽ kết nối với tất cả cơ quan, cơ và tuyến của bạn, nhờ đó giúp bạn suy nghĩ, học hỏi, di chuyển và ghi nhớ. Vì vậy, bạn cần có chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và thói quen sinh hoạt lành mạnh nhằm trẻ hóa não bộ, tăng cường khả năng hoạt động và làm chậm quá trình lão hóa não, giúp bạn duy trì đầu óc minh mẫn và sáng suốt.
Tài liệu tham khảo: My.clevelandclinic.org, Ncbi.nlm.nih.gov
21
Bài viết hữu ích?
Bài viết hữu ích?
21
Bài viết hữu ích?