Trước khi tìm hiểu về chỉ định siêu âm tim hay sử dụng siêu âm tim trong trường hợp nào, hãy xem siêu âm tim là gì và hiện nay đang có loại siêu âm tim nào?
Siêu âm tim là việc sử dụng sóng siêu âm để đánh giá các thành phần cấu trúc của tim ở một mức độ xâm lấn tối thiểu. Mặc dù, trước khi phát minh ra siêu âm tim 2 chiều được sử dụng thường quy ngày nay, đã có siêu âm tim dựa trên chuyển động (M - mode). Đây là công nghệ chính cho đến khi siêu âm hai chiều (2D) được phát triển trong những thập kỷ tiếp theo. Năm 1973, S.L. Johnson đã phát triển công nghệ siêu âm 2D và doppler, cuối cùng cho phép các bác sĩ phát hiện lưu lượng máu trong mạch, và vào năm 1979, Holen và Hatle phát hiện ra rằng bằng cách sử dụng phương trình Bernoulli, họ có thể phát hiện chênh lệch áp suất. Sự kết hợp của tất cả các công nghệ này là siêu âm tim được sử dụng phổ biến hàng ngày trong ngành y tế ngày nay.
Kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhất trong số này là siêu âm tim qua thành ngực (Transthoracic echocardiography - TTE). Điều này cho phép bác sĩ lâm sàng khảo sát được kích thước, cấu trúc và chức năng của tim theo thời gian thực trong chu kỳ tim. Một ứng dụng hữu ích và quan trọng khác của các phương pháp này là siêu âm tim gắng sức. Siêu âm tim gắng sức là sự kết hợp giữa siêu âm tim qua thành ngực tiêu chuẩn và áp lực dược lý hoặc thể chất đối với các cấu trúc tim để đánh giá các bất thường về chuyển động của thành tim. Căng thẳng về thể chất có thể bao gồm chạy trên máy chạy bộ và căng thẳng do thuốc, bao gồm cả căng thẳng do thuốc.
Khi cần chụp ảnh cấu trúc tim có độ phân giải cao hơn, bao gồm cả van tim, siêu âm tim qua thực quản (Transesophageal echocardiography - TEE) được xem xét. Siêu âm tim qua thực quản yêu cầu đưa đầu dò vào thực quản của bệnh nhân để thu được hình ảnh không bị cản trở bởi thành ngực, bao gồm cơ, mô và xương. Khi cần hình ảnh có độ phân giải cao hơn và chính xác hơn, trong các thủ thuật trong tim, siêu âm tim buồng tim (intracardiac echocardiography - ICE) là một lựa chọn có thể được xem xét.
Siêu âm tim là một xét nghiệm có chi phí thấp, xâm lấn tối thiểu và sẵn có, có thể cung cấp thông tin giúp chẩn đoán bệnh, điều trị cũng như thay đổi quá trình điều trị và trong một số trường hợp. Nhiều ứng dụng lâm sàng của siêu âm tim là đa ngành trong thực tế và sự chồng chéo giữa các tiện ích khác nhau của siêu âm tim là rất lớn. Vai trò của siêu âm tim có thể được áp dụng theo nhiều trường hợp khác nhau và nhiều tình huống khác nhau.
Nhiều người đặt ra câu hỏi rằng ai cần siêu âm tim và cần siêu âm tim trong trường hợp nào?
Các chỉ định siêu âm tim qua thành ngực là rất đa dạng và cơ sở của việc sử dụng phương pháp này là bệnh tim đã biết hoặc nghi ngờ. Tạp chí của Hiệp hội Siêu âm tim Hoa Kỳ đã công bố các trường hợp cần được chỉ định siêu âm tim như sau:
Siêu âm tim tại giường có nhiều chỉ định ngoài những điều được liệt kê ở trên. Kể từ đầu những năm 1990, việc sử dụng siêu âm tim tại giường của các bác sĩ hồi sức tích cực và bác sĩ cấp cứu ngày càng tăng.
Siêu âm tim tại giường thường được sử dụng ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, những người có thể đã hoặc chưa được chẩn đoán bệnh tim trước đó nhưng hiện cần hỗ trợ mạch máu. Siêu âm tim tại giường trong cơn khó thở có thể giúp làm sáng tỏ suy tim so với tràn dịch màng ngoài tim so với những nguyên nhân không do tim. Một số chỉ định phổ biến nhất đối với siêu âm tim tại giường bao gồm:
Các chỉ định cho việc sử dụng siêu âm tim gắng sức là nghi ngờ bệnh động mạch vành. Điều này bao gồm những bệnh nhân bị đau thắt ngực ổn định với xác suất mắc bệnh động mạch vành trung bình, với xác suất trước xét nghiệm là 15% - 85%. Điều này bao gồm:
Siêu âm tim qua thực quản (TEE) được sử dụng vì nó cung cấp chất lượng hình ảnh vượt trội của các buồng và cấu trúc phía sau tim khi so sánh với siêu âm tim qua thành ngực.
Siêu âm tim qua thực quản có thể được sử dụng trong:
Siêu âm tim trong buồng tim (ICE) được sử dụng trong quá trình can thiệp tim qua ống thông. Điều này bao gồm:
Khi siêu âm tim trong buồng tim thu được hình ảnh từ bên trong tim, hình ảnh có độ phân giải cao hơn sẽ thu được để giúp hướng dẫn các quy trình hướng dẫn qua ống thông. Tuy nhiên, do những tiến bộ trong siêu âm tim qua thực quản, việc sử dụng siêu âm tim trong buồng tim đã bị hạn chế. Tuy vậy, vì đã có sự gia tăng trong các thủ thuật đặt ống thông tĩnh mạch, siêu âm tim trong buồng tim đang được xem xét chỉ định trong một vài trường hợp.
Siêu âm nội mạch (IVUS) có thể được thực hiện trong quá trình thông tim để quan sát rõ hơn các mảng xơ vữa trong thành mạch, điều này được sử dụng khi mức độ và mức độ nghiêm trọng của hẹp không được xác định khi sử dụng can thiệp mạch vành qua da.
Các thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy siêu âm nội mạch cải thiện sự giãn nở lòng mạch, giảm tái hẹp, huyết khối trong stent, nhồi máu cơ tim và nhu cầu tái thông mạch máu khi so sánh với chụp mạch đơn thuần. Để khắc phục những hạn chế của cả chụp động mạch và siêu âm nội mạch, việc sử dụng kết hợp cả hai trong cùng một can thiệp có thể giúp tái tạo chính xác hơn về kích thước và thể tích mảng bám.
Siêu âm tốc độ căng cơ tim, còn được gọi là siêu âm tim biến dạng, được chỉ định khi có nghi ngờ cao về các bất thường chuyển động của thành tim. Tuy nhiên, siêu âm tim qua thành ngực sẽ được ưu tiên sử dụng để đánh giá các bất thường của thành tim. Khi kiểm tra các bất thường của thành tim bằng siêu âm tim qua thành ngực, điều này dựa trên các ước tính trực quan hay chủ quan của từng bác sĩ.
Nếu hình ảnh siêu âm tim qua thành ngực không rõ ràng hoặc chưa đủ rõ ràng, siêu âm tim biến dạng có thể được sử dụng như một công cụ hỗ trợ để đánh giá chính xác và khách quan hơn về các bất thường chuyển động của thành tim.
Siêu âm tim ba chiều (3D) được sử dụng khi cần có hình ảnh rõ ràng hơn về các cấu trúc tim và cách thức liên quan với nhau. Siêu âm tim ba chiều được sử dụng thường xuyên nhất khi cần khảo sát tim trước phẫu thuật. Siêu âm tim 3D cũng mang lại giá trị tiên lượng đối với những bất thường về chuyển động của thành tim ở những người bị thiếu máu cục bộ và đánh giá khả năng sống sót ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim.
Siêu âm tim cản quang đã được nghiên cứu rộng rãi trong việc đánh giá tưới máu cơ tim và đã được chứng minh là có lợi ích chẩn đoán và tiên lượng độc lập.
Việc tiêm chất cản quang có nước muối kích động sử dụng các bọt khí siêu nhỏ làm chất tương phản, được sử dụng để phát hiện các luồng thông từ phải sang trái ở những bệnh nhân được phát hiện có tai biến mạch máu não hoặc để đánh giá dị dạng động tĩnh mạch phổi. Các chỉ định lâm sàng khác bao gồm:
Siêu âm tim là tập hợp nhiều phương pháp với bản chất là sử dụng sóng siêu âm để khảo sát các bất thường trong cấu trúc của tim. Đây là một công cụ đơn giản, tiện lợi và mang lại nhiều giá trị trong việc chẩn đoán các bệnh lý tim mạch. Thông qua những hình ảnh trên siêu âm sẽ cho các bác sĩ hiểu được các bất thường gì đang xảy ra trong tim, từ đó đưa ra các phương pháp điều trị thích hợp. Chính vì giữ một vài trò vô cùng quan trọng nên hiện nay siêu âm là một kỹ thuật thường quy được thực hiện thường xuyên tại các bệnh viện, phòng khám lớn trên cả nước.
64
Bài viết hữu ích?
Bài viết hữu ích?
64
Bài viết hữu ích?