Zalo

Mục đích của xét nghiệm APTT

Trang chủ | Tin tức | Thông tin Y khoa Theo dõi thông tin từ Dripcare trên google news
Đông máu là một trong những yếu tố thường được bác sĩ chỉ định xét nghiệm để chẩn đoán và theo dõi trên lâm sàng. Trong đó phổ biến nhất là xét nghiệm APTT và PT. Vậy xét nghiệm APTT là gì và khi chỉ số xét nghiệm APTT kéo dài hay rút ngắn gợi ý những bệnh lý nào?
Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Trịnh Hồng Trí - Trưởng khoa xét nghiệm

1. Xét nghiệm APTT trong máu là gì?

Hiện nay, xét nghiệm đánh giá tình trạng đông máu phổ biến nhất là xét nghiệm APTT và xét nghiệm PT. Vậy xét nghiệm APTT là gì? APTT là xét nghiệm đông máu nhằm con đường đông máu nội sinh và con đường chung. Theo các chuyên gia, việc phân chia quá trình đông máu thành ngoại sinh, nội sinh và con đường chung ít có giá trị trong in vivo, tuy nhiên vẫn có vai trò quan trọng khi diễn giải kết quả xét nghiệm.

APTT là viết tắt của Activated Partial Thromboplastin Time. Thuật ngữ Thromboplastin trong xét nghiệm APTT dùng để thể hiện quá trình hình thành phức hợp từ nhiều yếu tố khác nhau trong huyết tương với chức năng chuyển đổi Prothrombin thành Thrombin và từ đó tiến đến hình thành cục máu đông. Thuật ngữ “Activated Partial Thromboplastin Time” xuất phát từ dạng ban đầu của xét nghiệm APTT (giới thiệu lần đầu năm 1953), trong đó chỉ có nồng độ phospholipid được kiểm soát và tên gọi “Partial Thromboplastin” được dùng trong lúc chuẩn bị phospholipid. Partial Thromboplastin có thể gia tốc cục máu đông nhưng không thể điều chỉnh thời gian đông máu kéo dài ở huyết tương bệnh nhân rối loạn đông máu. Về bản chất, thuật ngữ “partial” cho thấy chỉ có sự hiện diện của Phospholipid mà không có yếu tố mô (gọi là TF). Xét nghiệm APTT còn được biết đến với những cách gọi khác như:

  • Thời gian đông máu Kaolin Cephalin (KCCT: Kaolin Cephalin Clotting Time): Thuật ngữ này dễ gây nhầm nhẫn với thời gian đông máu Kaolin (KCT-Kaolin Clotting Time) là một xét nghiệm sàng lọc cho kháng thể kháng đông Lupus (LA) nhưng không chứa Cephalin. Cephalin là chất thay thế cho phospholipid tiểu cầu;
  • Thời gian Thromboplastin từng phần với Kaolin (PTTK: Partial Thromboplastin Time with Kaolin)

Trong lịch sử, Kaolin được sử dụng như một chất hoạt hóa bề mặt khi gắn trực tiếp với yếu tố đông máu XII và hoạt hóa trên bề mặt để chuyển thành XIIa. Yếu tố XIIa hoạt hóa yếu tố XI thành XIa, tuy nhiên khi thiếu Calcium thì quá trình hoạt hóa những yếu tố kế tiếp sẽ không xảy ra. Kaolin hiếm khi được sử dụng khi xét nghiệm APTT được tiến hành tự động vì khả năng cản quang gây khó khăn cho việc xác định điểm cuối bằng quang học. Những chất hoạt hóa phổ biến hay được sử dụng trong các hệ thống xét nghiệm tự động bao gồm Silica và Ellagic acid ở kích thước micro. Cephalin là một chất thay thế phospholipid, cụ thể thay cho phospholipid tiểu cầu trong xét nghiệm APTT.

Lưu ý: xét nghiệm APTT sử dụng huyết tương nghèo tiểu cầu, do đó phải bổ sung phospholipid để quá trình đông máu có thể xảy ra. Để thực hiện xét nghiệm APTT, mẫu bệnh phẩm là huyết tương nghèo tiểu cầu (PPP) được ủ ở 37 độ C, sau đó thêm Cephalin và chất hoạt hóa tiếp xúc (như Kaolin, Silica hoặc Ellagic acid micro hóa), tiếp theo sau là calcium (lưu ý tất cả các chất thêm vào đều được làm ấm trước ở 37 độ C). Khi calcium được thêm vào sẽ khởi động quá trình đông máu. APTT là thời gian tính từ lúc cho Calcium vào đến khi cục máu đông hình thành. Hiện nay hầu hết LABO đều thực hiện xét nghiệm APTT bằng phương pháp tự động, việc xác định điểm cuối dựa vào mức ánh sáng đi qua ở một ngưỡng nhất định.

Giá trị bình thường của xét nghiệm APTT là 25-35 giây
Giá trị bình thường của xét nghiệm APTT là 25-35 giây

2. Mục đích của xét nghiệm APTT

APTT xét nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá khả năng đông máu trước khi phẫu thuật hoặc khi cần hỗ trợ cầm máu. Chỉ số xét nghiệm APTT sẽ cho biết chính xác khả năng cầm máu của bệnh nhân có tốt hay không, có gặp bất thường gì và từ đó tìm ra biện pháp khắc phục. Với hầu hết các xét nghiệm đông máu, trong đó bao gồm xét nghiệm APTT, bác sĩ sẽ xem xét kết quả và kết hợp với các thông tin khác như triệu chứng lâm sàng, tiền sử gia đình và bản thân người bệnh… để đưa ra quyết định chẩn đoán về các bất thường liên quan đến đông máu. Tương ứng với các giai đoạn của quá trình đông máu, các xét nghiệm sẽ bao gồm nhiều xét nghiệm nhỏ tương ứng, trong đó có xét nghiệm APTT. Hiện nay, sự phát triển của y học và sự xuất hiện của các máy xét nghiệm hiện đại nên xét nghiệm APTT đa phần thực hiện theo phương pháp tự động với độ chính xác rất cao. Theo các chuyên gia, xét nghiệm APTT được chỉ định trong những trường hợp sau:

  • Chẩn đoán chính xác dạng rối loạn đông máu và mức độ nghiêm trọng của người bệnh mắc phải, đồng thời hỗ trợ trong quá trình theo dõi, điều trị;
  • Người bệnh có triệu chứng chảy máu dù không dùng thuốc chống đông máu như chảy máu mũi, chảy máu răng, bầm tím da, đại tiện phân máu, tiểu máu, xuất huyết trong khớp hoặc xuất huyết nhãn cầu gây giảm thị lực;
  • Xét nghiệm APTT trước phẫu thuật để chuẩn bị hỗ trợ nếu cần thiết;
  • Chảy máu hoặc bầm tím không giải thích được, nguyên nhân có thể do thiếu hụt hay khiếm khuyết các yếu tố đông máu theo đường nội sinh;
  • Tầm soát các trường hợp ưa chảy máu Hemophilia type A hay B, ngay cả các thể nhẹ;
  • Huyết khối hoặc sẩy thai tái phát;
  • Theo dõi bệnh nhân điều trị bằng thuốc chống đông máu (như Heparin);
  • Đánh giá mức độ nặng của một số bệnh gan;
  • Đánh giá tình trạng đông máu rải rác nội mạch.

Xét nghiệm APTT thường được bác sĩ chỉ định đồng thời với các xét nghiệm khác để theo dõi tình trạng đông máu, đặc biệt là xét nghiệm thời gian Prothrombin (đánh giá con đường đông máu ngoại sinh và con đường chung).

APTT xét nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá khả năng đông máu trước khi phẫu thuật hoặc khi cần hỗ trợ cầm máu
APTT xét nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá khả năng đông máu trước khi phẫu thuật hoặc khi cần hỗ trợ cầm máu

3. Ý nghĩa kết quả xét nghiệm APTT

Giá trị bình thường của xét nghiệm APTT là 25-35 giây, có thể thay đổi tùy theo độ tuổi, đối tượng, thuốc đang sử dụng và phương pháp xét nghiệm của từng LABO. Kết quả xét nghiệm APTT còn được biểu thị bằng tỷ lệ bệnh/chứng rAPTT (APTT bệnh/APTT chứng), bình thường trong khoảng 0.85-1.2. Xét nghiệm APTT kéo dài nghĩa là khi hơn 8 giây so với bình thường hoặc rAPTT > 1.2. Chỉ số xét nghiệm APTT kéo dài có thể do những nguyên nhân sau:

  • Thiếu hụt đơn lẻ các yếu tố XII, XI, VIIIc, IX của con đường đông máu nội sinh và yếu tố X, V, II của con đường chung;
  • Giảm số lượng Fibrinogen hoặc hoàn toàn không có Fibrinogen trong máu;
  • Bệnh Von Willebrand;
  • Lưu hành kháng thể chống đông trong máu;
  • Bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc chống đông Heparin hay Coumarin;
  • Mắc một số bệnh lý gan như xơ gan, viêm gan cấp hay mạn tính;
  • Xét nghiệm APTT kéo dài trong hội chứng đông máu rải rác nội mạch lan tỏa (DIC);
  • Truyền máu tự thân;
  • Sau phẫu thuật tim;
  • Bệnh nhân đang lọc máu;
  • Thiếu vitamin K.

Ngược lại, xét nghiệm APTT rút ngắn có thể do:

  • Bệnh nhân đang chảy máu cấp;
  • Ung thư giai đoạn tiến triển nặng, bao gồm ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tụy, ung thư đại tràng;
  • Tình trạng tăng đông;
  • Giai đoạn đầu của hội chứng đông máu rải rác nội mạch.

Đa phần khi chỉ số xét nghiệm APTT bình thường cho thấy chức năng đông máu bình thường, tuy nhiên vẫn có số ít bệnh nhân thiếu hụt các yếu tố đông máu đơn lẻ ở mức độ nhẹ đến trung bình (giảm ít hơn 30-40%) có chỉ số xét nghiệm APTT bình thường. Bên cạnh đó, xét nghiệm APTT đa phần thực hiện đồng thời với xét nghiệm PT nhằm đánh giá toàn diện các bất thường đông máu với kết quả như sau:

  • Xét nghiệm APTT và PT cùng kéo dài:
    • Suy giảm vitamin K;
    • Bệnh gan gây kém hấp thu vitamin K hoặc giảm tổng hợp các yếu tố đông máu;
  • Xét nghiệm APTT kéo dài rõ hơn PT:
    • Sử dụng Heparin không phân đoạn UFH: Chỉ số xét nghiệm APTT kéo dài đáng kể trong khi thời gian PT thường chỉ kéo dài nhẹ, tuy nhiên khi dùng UFH quá nhiều thì PT cũng kéo dài;
    • Kháng thể kháng phospholipid;
    • Tồn tại chất ức chế yếu tố đông máu mắc phải;
  • Xét nghiệm PT kéo dài vượt trội APTT:
    • Sử dụng Warfarin: Xét nghiệm APTT có thể chỉ kéo dài nhẹ vài giây ở bệnh nhân sử dụng chống đông warfarin, tuy nhiên khi bệnh nhân dùng quá liều thù APTT cũng sẽ kéo dài đáng kể.

4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến xét nghiệm APTT

Mẫu bệnh phẩm:

  • Mẫu máu bị đông, tỷ lệ chống đông thêm vào không phù hợp hoặc không đúng chất chống đông, chất chống đông bị hỏng;
  • Nhiễm heparin do quá trình lấy máu;
  • Huyết tương bị đục hoặc vỡ hồng cầu;
  • Mẫu máu bảo quản quá 4 giờ kể từ lúc lấy máu

Phương tiện, hóa chất, kỹ thuật:

  • Lượng Calcium và Cephalin-kaolin không đảm bảo hoặc quá thời gian bảo quản;
  • Mẫu huyết tương chứng không lấy tập hợp huyết tương hoặc lấy từ ít hơn 5 người;
  • Ống nghiệm sử dụng không sạch;
  • Pipet hỏng, không đảm bảo thể tích;
  • Máy xét nghiệm không chuẩn xác;
  • Người thực hiện không thực hiện theo quy trình, đọc và tính sai kết quả.
Chỉ số xét nghiệm APTT sẽ cho biết chính xác khả năng cầm máu của bệnh nhân
Chỉ số xét nghiệm APTT sẽ cho biết chính xác khả năng cầm máu của bệnh nhân

Tóm lại, APTT xét nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá khả năng đông máu trước khi phẫu thuật hoặc khi cần hỗ trợ cầm máu. Chỉ số xét nghiệm APTT sẽ cho biết chính xác khả năng cầm máu của bệnh nhân có tốt hay không, có gặp bất thường gì và từ đó tìm ra biện pháp khắc phục. Xét nghiệm máu cũng là một xét nghiệm thường quy được bác sĩ chỉ định trong mỗi lần thực hiện thăm khám sức khỏe định kỳ để đánh giá tổng trạng cơ thể. Trong trường hợp bạn đang nghi ngờ bản thân mình gặp các vấn đề sức khỏe thì nên đăng ký xét nghiệm máu tại các cơ sở y tế uy tín. Sau khi có kết quả xét nghiệm, bác sĩ sẽ căn cứ vào đó để có những tư vấn tốt nhất về tình trạng sức khỏe và hướng xử lý phù hợp cho bạn.

Để đặt hẹn thăm khám và tư vấn tại phòng khám DripCare, Quý khách vui lòng bấm số 094 164 8888 hoặc đăng ký tư vấn theo mẫu
Bài viết của Dược sĩ Đỗ Mai Thảo Xem thêm bài viết của Dược sĩ Đỗ Mai Thảo
Bác sĩ Trịnh Hồng Trí

BS.Trịnh Hồng Trí

Drip Hydration Hồ Chí Minh - Cơ sở 200A Cao Thắng

Chi tiết Đăng ký tư vấn
xem thêm
Các yếu tố ảnh hưởng đến xét nghiệm đông máu

Các yếu tố ảnh hưởng đến xét nghiệm đông máu

PT trong xét nghiệm máu là gì?

PT trong xét nghiệm máu là gì?

Xét nghiệm yếu tố đông máu là gì?

Xét nghiệm yếu tố đông máu là gì?

Mục đích của xét nghiệm PT là gì?

Mục đích của xét nghiệm PT là gì?

Quy định về việc nhịn ăn trước khi xét nghiệm máu của phòng khám Drip Hydration

Quy định về việc nhịn ăn trước khi xét nghiệm máu của phòng khám Drip Hydration

1080

Bài viết hữu ích?