Bệnh giun xoắn là kết quả của nhiễm trùng bởi một loại giun tròn ký sinh thuộc chi Trichinella, thường gặp nhất là Trichinella spiralis. Bệnh giun xoắn, mặc dù thường không được phổ biến như các loại ký sinh trùng khác và cũng không được nghiên cứu nhiều, nhưng vẫn là một căn bệnh quan trọng ở người trong hàng ngàn năm.
Ước tính có khoảng 10.000 trường hợp nhiễm giun xoắn Trichinella spiralis trên toàn thế giới hàng năm. Hầu như tất cả các loài động vật có vú đều dễ bị nhiễm bệnh, tuy nhiên, con người đặc biệt dễ mắc bệnh hơn do ăn phải các loại thực phẩm bị nhiễm giun. Ví dụ như ốc, các loại động vật trong đó nổi bất nhất là thịt lợn.
Các loài Trichinella chịu trách nhiệm về sự lây nhiễm được phân bố rộng rãi trên toàn thế giới, với các môi trường sống bao gồm Bắc Cực, vùng đất ôn đới và vùng nhiệt đới. Có một số loài Trichinella bao gồm Trichinella spiralis, Trichinella britovi, Trichinella murrelli, Trichinella nativa, Trichinella nelsoni, Trichinella pseudospiralis, Trichinella papuae… Trong đó Trichinella spiralis hầu như có mặt trên toàn thế giới và cũng là loài giun xoắn thường gây bệnh trong dịch tễ Việt Nam.
Vậy giun xoắn ký sinh ở đâu? Giun xoắn Trichinella spiralis cần 2 vật chủ để duy trì vòng đời của chúng. Sau khi phát triển ở vật chủ đầu tiên, chúng lây lan sang vật chủ tiếp theo thông qua việc ăn phải thịt bị nhiễm bệnh, trái ngược với vật chủ trung gian truyền thống của động vật chân đốt. Giun xoắn Trichinella spiralis có 3 vòng đời chính trong tự nhiên: từ lợn sang lợn, từ chuột sang chuột và bởi động vật ăn thịt hoặc ăn tạp trong tự nhiên. Chuột và lợn là những động vật thường mắc bệnh giun xoắn nhất, hay nói cách đây là nơi mà giun xoắn thường ký sinh nhiều nhất. Tuy nhiên, tùy thuộc vào khu vực, hải mã, hải cẩu, gấu, gấu bắc cực, mèo, gấu trúc, chó sói, cáo và cả con người cũng có thể bị nhiễm bệnh.
Vòng đời của giun xoắn Trichinella spiralis bắt đầu khi con người hoặc các loại động vật ăn phải thịt sống hoặc chưa được nấu chín kỹ có chứa ấu trùng sống bên trong các nang kén. Môi trường axit trong dạ dày của vật chủ sẽ giải phóng ấu trùng ra khỏi thành nang. Ấu trùng tự do di chuyển vào ruột non và bám vào xâm nhập vào niêm mạc ở đáy nhung mao. Sau 4 lần lột xác và trong khoảng thời gian 30 - 36 giờ, chúng phát triển thành giun xoắn trưởng thành, trở thành một sinh vật nội bào bắt buộc. Con đực trưởng thành có kích thước khoảng 1,5 x 0,05 mm và con cái trưởng thành có kích thước khoảng 3,5 x 0,06 mm. Khoảng 5 ngày sau khi nhiễm bệnh, con cái bắt đầu sinh ra các ấu trùng sơ sinh có kích thước 80 µm x 7 µm. Giun xoắn cái ở trong ruột khoảng 4 tuần và trong thời gian đó nó có thể giải phóng tới 1500 ấu trùng. Một phản ứng viêm của thành ruột sẽ đẩy giun xoắn cái ra ngoài theo phân.
Ấu trùng sơ sinh sau đó xâm nhập vào hệ bạch huyết, tuần hoàn máu và di chuyển đến cơ vân có mạch máu nuôi tốt. Giun xoắn có xu hướng thích các nhóm cơ hoạt động trao đổi chất tích cực bao gồm lưỡi, cơ hoành, cơ cắn, cơ liên sườn, cơ thanh quản, cơ ngoại nhãn, cơ gáy, cơ liên sườn, cơ ngực, cơ delta, cơ mông, bắp tay và dạ dày…. Trong các mô không phải cơ xương, chẳng hạn như cơ tim và não, ký sinh trùng sớm bị phân hủy, gây viêm nhiễm dữ dội và sau đó được tái hấp thu.
Ấu trùng giun xoắn Trichinella spiralis tiếp tục phát triển trong 2 - 3 tuần tiếp theo, cho đến khi chúng đạt đến giai đoạn phát triển đầy đủ, lúc đó chúng có thể tăng kích thước lên gấp 10 lần. Những con Trichinella spiralis trưởng thành không sinh sản sẽ đóng nang, chúng sẽ cuộn lại và phát triển thành nang hoặc tế bào nuôi dưỡng để giúp nó tồn tại trong các điều kiện khắc nghiệt hơn như môi trường axit (ngoại trừ T pseudospiralis, loại vi khuẩn này không hình thành nang). Toàn bộ chu kỳ của giun xoắn Trichinella spiralis mất 17 - 21 ngày. Ấu trùng trong nang có đạt kích thước trung bình 400 x 260 µm, có một số con có thể đạt chiều dài 800 - 1000 µm. Phức hợp nang kén và tế bào nuôi dưỡng có thể tồn tại trong 6 tháng đến vài năm trước khi vôi hóa và chết dần. Vòng đời của giun xoắn Trichinella spiralis hoàn tất khi một vật chủ thích ăn phải thực phẩm bị nhiễm bệnh.
Chúng ta đã cũng tìm hiểu qua về loài giun Trichinella spiralis, vậy khi nào cần phải xét nghiệm Trichinella spiralis. Câu trả lời đơn giản là khi một người có những yếu tố nguy cơ về dịch tễ, triệu chứng lâm sàng hoặc trễ hơn là các biến chứng của bệnh. Ngoài ra, việc xét nghiệm giun xoắn Trichinella spiralis còn được sử dụng để chất đoán phân biệt với những tình trạng bệnh lý khác.
Bệnh giun xoắn Trichinella spiralis có thể tiến triển từ giai đoạn xâm nhập (tức là đường ruột) sang đến giai đoạn ngoài đường tiêu hóa (tức là xâm lấn) và cuối cùng đến giai đoạn hồi phục.
Một số triệu chứng liên quan đến giai đoạn này bao gồm:
Các triệu chứng trong giai đoạn này có thể kéo dài từ 2 - 7 ngày nhưng đôi khi lên đến vài tuần. Với một số loài Trichinella và trong một số nhóm quần thể và vùng địa lý nhất định, bệnh có thể không tiến triển đến giai đoạn xâm lấn.
Giai đoạn xâm lấn tương ứng với sự di cư của ấu trùng giun xoắn từ ruột đến hệ tuần hoàn và cuối cùng là các cơ vân. Giai đoạn này có tỷ lệ gặp phải các triệu chứng cao hơn so với giai đoạn đường ruột. Thời gian của giai đoạn này có thể thay đổi từ vài tuần đến vài tháng, bao gồm:
Giai đoạn hồi phục, tương ứng với sự hình thành nang và chữa lành, có thể xuất hiện trong nhiều tháng đến nhiều năm sau khi nhiễm bệnh. Sự đóng kén của ấu trùng giun xoắn có thể dẫn đến chứng suy mòn, phù nề, sụt cân, giảm thị lực, nhức đầu mãn tính và mất nước nghiêm trọng.
Các triệu chứng thường giảm vào khoảng tháng thứ hai, trừ trường hợp nhiễm Trichinella pseudospiralis, có thể gây ra các triệu chứng trong vài tháng.
Ngoài các dấu hiệu trên, xét nghiệm Trichinella spiralis còn được chỉ định trong trường hợp cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý sau:
Khi xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng này, kèm với các yếu tố dịch tễ hay yếu tố nguy cơ khác, bác sĩ sẽ chỉ định bạn thực hiện các xét nghiệm giun xoắn để chẩn đoán xác định bệnh.
Dưới đây là một số xét nghiệm Trichinella spiralis cũng như các phương pháp khác được sử dụng trong chẩn đoán bệnh giun xoắn:
Gần như tất cả các bệnh nhân mắc bệnh giun xoắn, dù có triệu chứng hoặc không có triệu chứng, khi xét nghiệm Trichinella spiralis bằng công thức máu đều có biểu hiện tăng bạch cầu ái toan. Ngoại lệ duy nhất là trong những trường hợp nhiễm số lượng giun lớn và biểu hiện bất quá nặng, số lượng bạch cầu ái toan có thể bị suy giảm nghiêm trọng. Số lượng bạch cầu ái toan thấp cho thấy tỷ lệ tử vong tăng.
Tốc độ máu lắng thường nằm trong phạm vi tham chiếu (bình thường)
Creatine kinase
Lactate dehydrogenase
Nồng độ của các dạng đồng Enzyme lactate dehydrogenase (bao gồm lactate dehydrogenase 4 [LD4] và lactate dehydrogenase 5 [LD5]) tăng ở 50% bệnh nhân.
Globulin miễn dịch E
Nồng độ globulin miễn dịch - trichinella spiralis IgE thường tăng cao.
Test da nhạy cảm ngay lập tức không còn có sẵn trên thị trường. Kết quả phản ứng là dương tính (5 mm) vào khoảng ngày thứ 17 và duy trì dương tính suốt đời.
Các kỹ thuật phân tử đang được phát triển nhưng chưa được kiểm chứng.
Ở những bệnh nhân có các dấu hiệu liên quan đến hệ thần kinh trung ương, chụp CT - scan và MRI sọ não với tăng cường độ tương phản có thể cho thấy các tổn thương dạng nốt hay dạng vòng từ 3 đến 8 mm.
Các dấu hiệu liên quan đến hệ thống tim mạch có thể được biểu hiện qua điện tâm đồ:
Phản ứng chuỗi polymerase rất hữu ích để phân lập ký sinh trùng giun xoắn và định loại di truyền liên quan đến kiểu gen. Nó chủ yếu được sử dụng như một công cụ nghiên cứu.
Sinh thiết cơ vân thường dùng để chẩn đoán xác định bệnh. Tuy nhiên, nó chỉ được sử dụng trong trường hợp tất cả các phương pháp trên không hữu ích trong việc chẩn đoán. Phần cơ thường được lấy mẫu là khoảng 0,5 - 1 gram cơ Delta hoặc cơ cẳng chân. Tỉ lệ dương tính tăng cao khi vùng sinh thiết bị sưng và đau. Trong trường hợp ấu trùng cuộn lại thành nang, các mô giun xoắn có thể bị nhầm lẫn là các tế bào cơ. Kết quả sinh thiết âm tính cung không được kết luận là không nhiễm giun xoắn.
Giun xoắn là một loài ký sinh trùng có mặt tại vùng dịch tễ của Việt Nam. Tuy không xuất hiện nhiều như các loài ký sinh trùng khác, nhưng giun xoắn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên nhiều cơ quan trong cơ thể, trong đó có tim và não. Việc phát hiện nhiễm giun xoắn thông qua các xét nghiệm sẽ giúp bác sĩ kịp thời đưa ra các phương pháp điều trị nhằm hạn chế các biến chứng có thể xảy ra.
Do đó, khi có dấu hiệu của việc nhiễm giun xoắn, điều cần làm là tới các cơ sở y tế, bệnh viện để được làm các xét nghiệm để từ đó có phương án điều trị kịp thời nhất.
209
Bài viết hữu ích?
Bài viết hữu ích?
209
Bài viết hữu ích?