Khớp vai, hay khớp glenohumeral là khớp ổ bi. Bao gồm hố ổ chảo phẳng và đầu xương cánh tay tròn lớn. Với ổ chảo quá phẳng, có rất ít xương tương ứng với khớp mang lại cho nó khả năng vận động như vậy. Các bề mặt khớp được bao phủ bởi sụn hyaline. Một vùng của sụn sợi, được gọi là labrum, làm sâu khớp này để cải thiện sự ổn định. Có 4 cơ chóp xoay – Subscapularis (cơ dưới vai), Supraspinatus (cơ trên gai), Infraspinatus (cơ dưới gai) và Teres Minor (cơ tròn bé). Những cơ này thường sẽ được kiểm tra bằng siêu âm. Subscapularis (cơ dưới vai) và Supraspinatus (cơ trên gai) được ngăn cách bởi một khoảng trống được gọi là khoảng quay. Phần này chứa đầu dài của gân cơ nhị đầu và dây chằng coracohumeral. Cùng với vòng quay, các cơ delta và cơ tròn cũng có mặt và giúp di chuyển vai. Viêm xương khớp là loại viêm khớp vai phổ biến nhất. Đây còn được gọi là bệnh thoái hóa khớp vai. Các loại viêm khớp vai ít phổ biến hơn là viêm khớp dạng thấp (viêm) và viêm khớp do chấn thương. Trong viêm xương khớp, sụn trơn bao phủ các đầu xương bị mòn đi. Do đó, làm cho xương thô cọ xát vào nhau. Hậu quả là dẫn đến chuyển động không đều khi các xương cọ vào nhau và gây ra các gai xương gọi là gai xương. Đây là những khối xương phát triển hình thành khi xương cố gắng tự chữa lành. Chuyển động không đều, gai xương và viêm có thể dẫn đến đau và mất chuyển động ở vai. Có hai khớp trong vai có thể bị ảnh hưởng bởi viêm xương khớp. Khớp chính cung cấp hầu hết các chuyển động của vai là khớp ổ và khớp cầu được gọi là khớp glenohumeral (GH). Đây là nơi xương cánh tay gặp xương bả vai. Đầu xương cánh tay là mặt bóng. Phần ổ chảo của xương bả vai là phía ổ cắm. Một miếng đệm mô mềm được gọi là labrum làm sâu thêm ổ cắm. Một khớp nhỏ khác ở vai không cung cấp nhiều chuyển động là khớp acromioclavicular (AC).
Thoái hoá khớp vai thường xảy ra ở những người trên 50 tuổi. Ở những người trẻ tuổi, viêm xương khớp có thể do chấn thương hoặc chấn thương, chẳng hạn như gãy xương hoặc trật khớp vai. Điều này được gọi là viêm khớp sau chấn thương. Thoái hóa khớp vai cũng có thể do di truyền.
Lượng sụn bị mất khác nhau ở mỗi người và các triệu chứng của viêm khớp vai cũng vậy:
Sử dụng đầu dò có độ phân giải cao (7-15MHZ) là cần thiết khi đánh giá cấu trúc bề mặt của vai. Kỹ thuật quét cẩn thận để tránh hiện tượng bất đẳng hướng (và có thể chẩn đoán sai). Điều khiển hoặc kết hợp chùm tia có thể giúp khắc phục hiện tượng bất đẳng hướng trong các cấu trúc tuyến tính như gân. Khả năng màu sắc/ sức mạnh/ Doppler tốt khi đánh giá các mạch máu hoặc mạch máu của một cấu trúc. Hãy chuẩn bị để thay đổi đầu ra tần số của đầu dò (hoặc đầu dò) để đánh giá đầy đủ cả cấu trúc bề ngoài và sâu hơn. Trước khi quét, bác sĩ sẽ giải thích quy trình kiểm tra. Bệnh nhân sẽ được yêu cầu ngồi trên ghế và để lộ vai. Một lượng nhỏ gel sẽ được bôi lên vai của bệnh nhân và đầu dò sẽ được di chuyển theo các hướng khác nhau. Bệnh nhân cũng có thể được yêu cầu di chuyển khớp hoặc tay chân trong quá trình quét để bác sĩ siêu âm có thể nhìn vào khu vực bị ảnh hưởng trong khi nó đang chuyển động.
Quy trình giải phẫu siêu âm khớp vai sẽ được thực hiện theo các bước. Siêu âm khớp vai bắt đầu bằng cách kiểm tra rãnh cơ nhị đầu (BG) và đầu dài của gân cơ nhị đầu cánh tay. Bệnh nhân ngồi đối diện với bác sĩ siêu âm ở vị trí trung lập, tay của bệnh nhân đặt lòng bàn tay lên trên đùi. Một hình ảnh trục ngắn được thực hiện bằng cách định vị đầu dò trên siêu hình xương cánh tay gần nhất vuông góc với xương cánh tay. Hình ảnh trục dài của gân có được bằng cách xoay đầu dò đến vị trí song song với trục xương cánh tay. Sau đó, gân cơ dưới vai được kiểm tra. Cánh tay của bệnh nhân được cố định trên sườn và cẳng tay dạng ra ngoài khi xoay ngoài. Chế độ xem trục dài và ngắn của gân được thực hiện. Các gân cơ dưới gai và gân cơ tròn được kiểm tra từ góc nhìn phía sau của vai bệnh nhân được xoay 90°, tay của bệnh nhân đặt trên vai đối diện và đầu dò được định hướng trong mặt phẳng dọc trên đầu xương cánh tay. Khớp glenohumeral và rãnh gai xương bả vai-ổ chảo cũng được kiểm tra trên mặt sau của vai. Đầu dò bây giờ được di chuyển về phía trong và phía đuôi trong mặt phẳng ngang cho đến khi nhìn thấy mép sau của khớp glenohumeral và sau đó, tiếp tục về phía trong để hiển thị rãnh gai xương bả vai- ổ chảo. Gân trên gai được quét ở mặt trước của vai. Bệnh nhân ngồi đối diện với bác sĩ siêu âm. Cánh tay của bệnh nhân được đặt ở vị trí phía sau, bàn tay phía sau trên cánh chậu đối diện hoặc bàn tay trong lòng bàn tay trên cánh chậu cùng bên. Hình chiếu trục dài và ngắn của gân trên gai thu được. Sau đó, quá trình quét vòng quay của công cụ quay vòng được thực hiện trong các thao tác động. Đầu dò được đặt trên mỏm cùng vai. Cánh tay của bệnh nhân được dạng ra với khuỷu tay gấp 90°, hoặc/và cánh tay được duỗi ra phía trước . Cuối cùng, khớp cùng đòn được quét. Bàn tay bệnh nhân úp lên trên đùi. Đầu dò được định vị trên đỉnh vai theo mặt phẳng vành. Hình ảnh siêu âm chẩn đoán cơ xương là một công cụ chẩn đoán tuyệt vời để đánh giá chính xác những thay đổi của xương liên quan đến viêm xương khớp. Nó cũng có khả năng đánh giá sự hiện diện của sưng và viêm liên quan đến viêm bao hoạt dịch. Ngoài ra, kết quả siêu âm khớp vai có thể dùng để chẩn đoán những bệnh lý sau: Viêm gân, rách gân, vôi hoá gân, gãy xương, trật khớp, rách cơ chóp xoay, rách bao hoạt dịch, viêm gân cơ chóp xoay,... Tóm lại, kết quả siêu âm khớp vai cho thấy từng vết rách cơ nhỏ hay từng vết mẻ sụn nhỏ đều có thể được nhìn thấy rõ ràng trên hình ảnh siêu âm khớp vai, từ đó ngoài việc cái nhìn tổng thể bác sĩ sẽ có cái nhìn chi tiết cho mọi bệnh lý phổ biến xảy ra ở khớp vai. Vì vậy, kết quả siêu âm khớp vai là công cụ hỗ trợ giúp bác sĩ có được một cái nhìn toàn diện về bệnh lý cũng như sự hình thành và các thức ủ bệnh từ đó bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp với từng bệnh nhân.
Nguồn tham khảo: hopkinsmedicine.org; orthoinfo.aaos.org; ultrasound-guided-injections.co.uk; ncbi.nlm.nih.gov.
2127
Bài viết hữu ích?
Bài viết hữu ích?
2127
Bài viết hữu ích?