Trước khi tìm hiểu về xét nghiệm chẩn đoán sán lá phổi hay khi nào cần phải sử dụng các bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi? Hãy cùng sơ lược về sán lá phổi là gì?
Sán lá thuộc chi Paragonimus gây ra bệnh sán lá phổi, một bệnh ký sinh trùng tấn công các loại động vật và cả con người, gây ra bệnh viêm phổi bán cấp đến mãn tính. Trong số 10 loài Paragonimus là mầm bệnh ở người, chỉ có 8 loài gây nhiễm trùng đáng kể. Trường hợp đầu tiên được mô tả ở người là khi khám nghiệm tử thi ở Đài Loan vào năm 1879, khi sán trưởng thành được tìm thấy trong phổi. Loài phổ biến nhất là sán lá phổi phương Đông, Paragonimus westermani. Sán trưởng thành có màu nâu đỏ, hình trứng. Con trưởng thành có 2 mút cơ bắp, một mút miệng nằm ở phía trước và một mút ở giữa cơ thể trên bề mặt bụng. Trứng màu nâu vàng và hình trứng không đối xứng, có vỏ dày với màng mang.
Trứng của ký sinh trùng sán lá Paragonimus westermani có kích thước từ 68 - 118 µm x 39 - 67 µm. Chúng có màu vàng nâu và hình trứng hoặc thuôn dài, vỏ dày. Chúng thường không đối xứng, với một đầu hơi dẹt. Ở đầu lớn, có thể nhìn thấy nắp mang (nghĩa là nắp hoặc lớp phủ).
Vòng đời của những con sán lá phổi Paragonimus bao gồm 2 vật chủ trung gian cộng với con người. Vòng đời phức tạp của nó bao gồm 7 giai đoạn riêng biệt, từ trứng sán cho đến sán là phổi trưởng thành. Sán lá phổi Paragonimus trưởng thành sống trong phổi người và đẻ trứng vào phế quản. Trứng bị tống ra ngoài bằng cách ho hoặc thải qua phân người. Trứng sau đó phát triển trong nước trong 2 - 3 tuần và cuối cùng giải phóng ấu trùng lông, sau đó chúng xâm nhập vào vật chủ trung gian đầu tiên, một loài ốc nước ngọt. Những ấu trùng lông này phát triển qua các giai đoạn bào tử và phát triển thành ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi xuất hiện và xâm nhập vào vật chủ trung gian thứ hai, một vài loài giáp xác như cua hoặc tôm, trong đó chúng trở thành các nang trùng.
Khi con người ăn phải động vật giáp xác bị nhiễm bệnh, các nang trùng sẽ phát triển trong ruột non và xuyên qua thành ruột vào khoang phúc mạc từ 30 phút đến 48 giờ sau khi đào thải ra ngoài. Sau đó, chúng di chuyển vào thành bụng hoặc gan, nơi chúng trải qua các quá trình phát triển hơn nữa. Khoảng 1 tuần sau, sán trưởng thành trở lại từ khoang bụng và xuyên qua cơ hoành để đến khoang màng phổi và phổi. Trứng sau đó có thể được khạc ra bên ngoài. Nếu những quả trứng này đến được nguồn nước, vòng đời sẽ bắt đầu lại. Ở các sán trưởng thành, thành nang xơ phát triển xung quanh chúng và sau đó trứng bắt đầu lắng đọng sau 5 - 6 tuần kể từ khi nhiễm bệnh. Sán lá phổi có thể sống từ 20 năm trở lên.
Vậy khi nào cần xét nghiệm Paragonimus hay chỉ định lấy các bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi? Câu trả lời đơn giản là dựa vào các yếu tố nguy cơ, triệu chứng cũng như muộn hơn là các biến chứng của bệnh.
Với những người hay các loại vật nuôi trong gia đình có tiền sử ăn phải tôm, cua sống không được nấu chính, ăn tái hoặc làm gỏi… cần được thực hiện các xét nghiệm Paragonimus để xem họ có nguy cơ nhiễm bệnh hay không.
Khoảng 20% bệnh nhân mắc bệnh sán lá phổi không có triệu chứng. Đau bụng, tiêu chảy, mề đay xảy ra trong giai đoạn cấp tính, tương ứng với giai đoạn xâm nhập và di trú của sán non. Những triệu chứng ban đầu này kéo theo một vài ngày sau đó là sốt, ho, khó thở, đau ngực, khó chịu và đổ mồ hôi. Giai đoạn cấp tính thường kéo dài trong vài tuần. Trong giai đoạn mãn tính, các biểu hiện có thể ở phổi hoặc ngoài phổi. Các triệu chứng phổi mãn tính bao gồm ho khan, sau đó là ho có đờm dai và gỉ hoặc vàng. Các triệu chứng phổi bắt đầu khoảng 6 tháng sau khi nhiễm bệnh và thường bị nhầm với các triệu chứng của bệnh lao. Nếu được phát hiện các dấu hiệu trên, bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân thực hiện xét nghiệm máu tìm sán lá phổi hay lấy bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi.
Tăng bạch cầu ái toan và không sốt gợi ý chẩn đoán thực sự. Tăng bạch cầu ái toan ngoại biên có ở 25% bệnh nhân. Bệnh nhân thường cho biết khó chịu ở ngực mơ hồ, khó thở khi gắng sức hoặc thở khò khè. Ho ra máu đe dọa tính mạng có thể xảy ra trong một số trường hợp.
Bệnh sán lá phổi ngoài phổi có thể xảy ra do sự di cư của sán non hoặc trưởng thành đến các cơ quan khác nhau hoặc từ trứng đi vào vòng tuần hoàn và được mang đến các vị trí sau:
Mặc dù nhiễm sán lá phổi ở não xảy ra ở ít hơn 1% bệnh nhân có triệu chứng, nhưng đây là vị trí nhiễm trùng ngoài phổi phổ biến nhất và chịu trách nhiệm cho 50% tất cả các bệnh ngoài phổi. Hơn nữa, nó được thấy ở 25% bệnh nhân cần nhập viện. Dạng bệnh này cũng đặc biệt phổ biến ở trẻ em. Các triệu chứng ban đầu giống như viêm màng não và có thể kéo dài 1 - 2 tháng. Các triệu chứng giai đoạn mãn tính bao gồm đau đầu, nôn mửa, co giật hoặc suy nhược.
Trứng và giun cũng có thể gây ra các u nang, áp xe hoặc u hạt xung quanh. U nang có thể xuất hiện ở thành ruột, gan, lá lách, thành bụng, khoang phúc mạc hoặc các hạch bạch huyết mạc treo. Các triệu chứng có thể bao gồm tiêu chảy ra máu hoặc đau bụng.
Các dấu hiệu thực thể khác ít người nghĩ đến những vẫn được xem là dấu hiệu để một người được chỉ định xét nghiệm Paragonimus, bao gồm:
Dưới đây là một số xét nghiệm chẩn đoán sán lá phổi mà bạn có thể được bác sĩ chỉ định thực hiện khi có những dấu hiệu nghi ngờ kể trên:
Xét nghiệm Paragonimus dựa trên công thức máuthường cho thấy tăng bạch cầu ái toan ở 10 - 30% bệnh nhân mắc bệnh. Mức độ tăng bạch cầu ái toan cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân bị viêm màng phổi. Tăng số lượng bạch cầu nhẹ kèm với tăng bạch cầu ái toan xảy ra sớm trong quá trình bệnh nhưng sau đó sẽ tự khỏi theo thời gian. Mặc dù tăng bạch cầu ái toan là một chỉ số gợi ý có nhiễm Paragonimus, nhưng tổng số lượng bạch cầu vẫn ở mức bình thường hoặc tăng nhẹ.
Chẩn đoán xác định đòi hỏi phải phát hiện trứng trong bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi như đờm, phân, dịch màng phổi, dịch não tủy (CSF) hoặc mủ. Xét nghiệm máu tìm sán lá phổi thường không mang lại giá trị gì. Trứng có thể không có trong phân và đờm trong 2 - 3 tháng.
Sán lá phổi hoặc trứng của chúng còn có thể được tìm thấy trong bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi khác như sinh thiết phổi, não, dưới da hoặc nốt trong ổ bụng hoặc tổn thương dạng nang. Sán trưởng thành thường được bọc trong nang, có xu hướng xảy ra ở phổi phải. Bệnh nhân thường có ít hơn 20 nang, mỗi nang chứa 2 - 4 con sán. Thành nang dày, xơ cứng và đôi khi bị vôi hóa. Như đã nói ở trên, hình ảnh thu từ các bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi đủ tiêu chuẩn chẩn đoán phải chứa các loại trứng nhỏ có màu nâu vàng, dài 80 - 120 µm, rộng 45 -7 0 µm, vỏ dày và có nắp mang rõ ràng.
Khi chọc dò tủy sống, kiểm tra dịch não tủy bị nhiễm bệnh cho thấy chất lỏng có máu hoặc đục có chứa nhiều bạch cầu ái toan. Khi chọc dịch màng phổi, dịch màng phổi bị nhiễm bệnh thường có huyết thanh và có hơn 1000 tế bào hồng cầu kèm theo tăng bạch cầu ái toan. Chất lỏng thường là dịch tiết có nồng độ glucose thấp. Trứng ký sinh hiếm khi được phát hiện trong cặn của tràn dịch màng phổi. Mẫu sinh thiết phổi thường tiết lộ sán thành hoặc trứng của chúng.
Tỷ lệ phát hiện trứng đối với bệnh sán lá phổi trung bình là 25 - 35% đối với một mẫu đờm nhưng có thể đạt tới 50% khi xét nghiệm nhiều lần, con số này có thể lên đến 7 lần xét nghiệm liên túc. Tỷ lệ mẫu bệnh phẩm xét nghiệm sán lá phổi thu được qua nội soi phế quản là 53 - 67%. Xét nghiệm phân rất hữu ích để chẩn đoán bệnh sán lá phổi ở trẻ em vì trẻ em có xu hướng nuốt đờm.
X quang ngực cho thấy những bất thường ở khoảng 80 - 90% bệnh nhân, tuy nhiên, 13 -20% trường hợp được xác nhận có nhiễm sán lá phổi có X - quang bình thường. Các bất thường trên X quang có thể bao gồm bóng vòng, đại diện cho các tổn thương tạo hang, xơ hóa, nốt hoặc thâm nhiễm tuyến tính với các ổ vôi hóa, tràn dịch màng phổi dạng cục và dày màng phổi.
Ba giai đoạn X quang của nhiễm sán lá phổi đã được mô tả. Sự di cư của ấu trùng có thể dẫn đến tràn khí màng phổi với đông đặc hoặc tràn dịch màng phổi tiết dịch. Trong quá trình trưởng thành của sán, các tổn thương nốt hoặc nang chủ yếu phát triển ở ngoại vi của thùy giữa và thùy dưới phổi. Giãn phế quản cũng có thể xảy ra. Sau khi điều trị, các tổn thương dần dần biến mất trong 3 - 26 tháng.
Chụp CT - scan hoặc MRI não có thể phát hiện vôi hóa não, tổn thương dạng nang hoặc não úng thủy. Bệnh sán lá phổi mãn tính ở não có thể bị nghi ngờ bởi sự hiện diện của "tổn thương bong bóng xà phòng" với vôi hóa rải rác.
Huyết thanh học đối với bệnh sán lá phổi rất hữu ích, vì tỷ lệ phát hiện trứng tương đối thấp. Các xét nghiệm huyết thanh học hỗ trợ chẩn đoán bệnh ngoài phổi khi trứng không được thải ra trong đờm hoặc phân.
Xét nghiệm cố định bổ thể rất nhạy và hữu ích nhất sau khi điều trị vì nồng độ kháng thể giảm sau 6 - 12 tháng sau khi điều trị hiệu quả. Những khó khăn kỹ thuật vốn có trong xét nghiệm cố định bổ thể khiến xét nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết với enzyme (ELISA) trở thành xét nghiệm huyết thanh học được lựa chọn. ELISA có độ nhạy 92% và đặc hiệu. Tuy nhiên, mức độ kháng thể thường mất nhiều thời gian hơn (nghĩa là < 24 tháng) để trở lại phạm vi ban đầu sau khi điều trị thành công. Kết quả dương tính ở mức độ thấp có thể xảy ra với các bệnh nhiễm trùng sán lá khác.
Một xét nghiệm immunoblot nhanh do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh phát triển có độ nhạy 96% và độ đặc hiệu 99% nhưng không thể được sử dụng để phân biệt hoạt động với nhiễm trùng trong quá khứ.
1252
Bài viết hữu ích?
Bài viết hữu ích?
1252
Bài viết hữu ích?